Có lẽ chúng ta nên xem xét lại chiến lược phát triển kinh tế là nên đầu tư cho sáng tạo cũng như tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa về xuất khẩu. Nên đầu tư vào điện gió, phát triển các ngành dịch vụ du lịch.
Sau đây là trích nguyên văn bài báo.
Việt Nam không nên làm thép!
Dù bị áp thuế tự vệ, giá thép nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn thấp hơn thép Việt Nam khoảng 10%.
Kể từ sau khi tin tức
về dự án thép Cà Ná có quy mô 10,6 tỉ USD được truyền đi, những tranh cãi về
chuyện Việt Nam nên hay không nên làm thép đã nổ ra. Phía ủng hộ có lý do để bỏ
phiếu thuận. Đại diện Bộ Công Thương nhận định, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 17
triệu tấn thép vào năm 2020 và đến năm 2025, con số này có thể lên tới 22-25
triệu tấn. Đây là lý do để Bộ Công Thương bỏ phiếu cho dự án thép Cà Ná.
Một số chuyên gia tán
thành sự ra đời của những dự án thép “khủng” còn vì ngành thép cần được cơ cấu
lại. Trong bài viết của mình, chuyên gia kinh tế Phan Minh Ngọc cho rằng, phần
lớn nhà máy ở Việt Nam có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ (công suất dưới 500.000 tấn).
Sự ra đời của những dự án thép quy mô lớn hứa hẹn làm gia tăng vị thế của
ngành, tăng áp lực cạnh tranh, buộc các nhà máy và dự án thép kém hiệu quả phải
rút lui.
Liệu những lý do này
đủ để thuyết phục các dự án thép “khủng” là cần thiết cho Việt Nam?
Nỗi ám ảnh từ thép
Trung Quốc
Phải thừa nhận một
nghịch lý rằng Việt Nam thiếu nhưng lại thừa thép. Trong những phân khúc Việt
Nam đang sản xuất như thép xây dựng, thép ống, thép cuộn cán nguội và tôn mạ,
hầu hết đều có công suất gấp đôi mức tiêu thụ. Sắp tới, khi nhiều dự án mới như
Khu Liên hợp Gang Thép Formosa Hà Tĩnh (Đài Loan), Thép Nghi Sơn cùng đi vào
hoạt động, sản lượng thép đến năm 2030 có thể đạt tới 50 triệu tấn mỗi năm, gấp
3-4 lần hiện tại. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ dự đoán chưa tới 40 triệu
tấn/năm.
Thừa thép nhưng Việt
Nam vẫn đang bỏ ra hàng tỉ USD mỗi năm để nhập khẩu thép. Đó là vì nhiều loại
thép như thép hợp kim, thép cuộn cán nóng, thép tấm lá, thép không gỉ, thép chế
tạo... Việt Nam chưa đủ khả năng sản xuất hoặc chưa đủ năng lực đáp ứng. Theo
Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), năm 2015, Việt Nam đã nhập gần 1,8 triệu tấn phôi
thép, nhập hơn 1,6 triệu tấn thép cuộn, dây thép và 1,43 triệu tấn tôn mạ. Tất
cả đều tăng mạnh so với cùng kỳ.
Đây là sự bất hợp lý
trong cơ cấu sản phẩm, đồng thời cũng phản ánh năng lực cạnh tranh yếu kém của
ngành thép Việt Nam. Thực tế, dù bị áp thuế tự vệ, giá thép nhập khẩu từ Trung
Quốc hiện vẫn thấp hơn thép Việt Nam khoảng 10%. Vì thế, các công ty thương mại
tích cực nhập khẩu thép Trung Quốc về bán. Trong 8 tháng đầu năm nay, lượng
thép Trung Quốc nhập vào Việt Nam đã gần bằng 80% lượng thép tiêu thụ trên thị
trường và chiếm xấp xỉ 60% về sản lượng lẫn giá trị thép nhập khẩu của Việt
Nam.
Thép Trung Quốc sẽ còn
tiếp tục gây khó khăn cho thép Việt Nam do quốc gia này đang thừa cung và có
thể sẽ thực hiện chiến dịch phá giá, đẩy mạnh bán thép ra nước ngoài. Trung
bình mỗi năm Trung Quốc xuất ra thị trường thế giới 15% tổng sản lượng sắt
thép. Nếu tình hình tiêu thụ ở Trung Quốc không cải thiện, nước này có thể dư
thừa tới 300 triệu tấn thép mỗi năm, theo dự báo của Hiệp hội Sắt Thép Trung
Quốc.
Cả thế giới đều lo sợ
và tìm cách ngăn chặn thép Trung Quốc. Mỹ đã áp dụng mức thuế chống bán phá
giá, chống trợ cấp lên tới 266% đối với một số sản phẩm thép Trung Quốc nhập
khẩu. Úc cũng quyết định áp thuế chống bán phá giá 53% lên thép Trung Quốc từ tháng
4 năm nay bất chấp Trung Quốc đe dọa cắt giảm nhập khẩu quặng sắt từ Úc. Riêng
châu Âu, một mặt vận động các tập đoàn thép lớn sáp nhập với nhau và đổi mới
công nghệ để làm ra những loại thép cao cấp mà Trung Quốc không sản xuất được,
mặt khác đàm phán với Trung Quốc lập ra một cơ quan hỗn hợp để theo dõi số liệu
thương mại song phương về thép và giám sát việc Trung Quốc thực hiện các biện
pháp cắt giảm sản lượng thép.
Việt Nam cũng đã thiết
lập hàng rào thuế quan tự vệ đối với thép nhập khẩu và chính thức áp dụng biện
pháp này từ tháng 8.2016. Tuy nhiên, mức thuế 23,3% mà Việt Nam áp cho phôi
thép và 15,4% dành cho thép dài sẽ chỉ kéo đến tháng 3.2020, với thuế suất giảm
dần qua các năm. Nhiều khả năng các biện pháp tự vệ từ Việt Nam sẽ không làm
chậm lại bước tiến của thép Trung Quốc.
Trung Quốc có sức mạnh
của một cường quốc về sản xuất thép. Theo Hiệp hội Thép Thế giới, hằng năm,
Trung Quốc sản xuất hơn 800 triệu tấn thép. Tuy năm 2015, nước này đã giảm đôi
chút về sản lượng nhưng vẫn gấp 5 lần sản lượng của châu Âu, hơn 7 lần Nhật và
chiếm hơn một nửa tổng sản lượng thép toàn thế giới. Với quy mô này, cộng thêm
những ưu đãi mà Trung Quốc dành cho ngành thép, như ưu đãi về giá điện, nước,
nới lỏng các quy định về môi trường và các doanh nghiệp thép Trung Quốc cũng đã
triển khai những ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất thép nên thép Trung Quốc
không chỉ vượt trội về nguồn cung hàng hóa mà còn hấp dẫn về giá cả. Với những
lợi thế này, gần như không quốc gia nào thắng nổi Trung Quốc trong cuộc cạnh
tranh về giá thép.
Bất lợi đủ đường
Ngành thép Việt Nam
còn phải cạnh tranh với các đối thủ đến từ nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Một khi nhà máy thép của Formosa đi vào vận hành, với công suất 7,5
triệu tấn/năm giai đoạn 1 và tăng lên khoảng 22,5 triệu tấn/năm khi nhà máy
hoàn thiện, Formosa có khả năng sẽ thao túng cả thị trường. Bởi ngay doanh
nghiệp thép lớn nhất hiện nay của Việt Nam là Hòa Phát cũng chỉ mới đạt công
suất 2 triệu tấn/năm.
Ngành thép cũng chịu
ảnh hưởng bởi cung cầu thị trường, giá cả... trên thế giới, vốn thường xuyên
biến động. Chính vì thế, ngành thép chỉ mới sáng sủa trở lại trong năm nay, sau
khi giá thép thế giới hồi phục, nhu cầu thép trong nước tăng theo, thị trường
bất động sản ấm lại và Việt Nam đã tiến hành các biện pháp thuế quan tự vệ. Còn
trước đó, ngành thép Việt Nam hứng chịu nhiều lao đao. Trong 5 năm (2011-2015),
nhiều doanh nghiệp trong ngành này như Thép Việt Ý, Hữu Liên Á Châu, Thép Tiến
Lên, Pomina, Thép Nam Kim, Đại Thiên Lộc, Thép Thái Nguyên (TISCO)... đều từng
nếm trải mùi thua lỗ.
Hơn
2/3 nhà máy thép trong nước sử dụng thiết bị sản xuất có công nghệ lạc hậu,
tiêu hao năng lượng và gây ô nhiễm môi trường. Ảnh: baomoi.com
|
Nhìn sâu thêm vào
ngành thép mới thấy Việt Nam khó mong đạt tới một nền công nghiệp thép có khả
năng trụ vững trước sức tấn công của thép Trung Quốc. Theo báo cáo của nhóm
chuyên gia thuộc Fulbright, sau hơn 2 thập niên tìm cách đổi mới ngành thép,
dồn lực đầu tư cho nhóm doanh nghiệp nhà nước mà cụ thể là Tổng Công ty Thép
Việt Nam (VNSteel), VNSteel vẫn không tỏa sáng. Trong khi đó, các doanh nghiệp
tư nhân - nhóm không được ưu tiên - lại cho thấy sức bật. Hiện tại, Pomina là
doanh nghiệp đầu tư bài bản nhất, còn Hòa Phát có lẽ là doanh nghiệp đạt lợi
thế cạnh tranh lớn nhất.
Nhưng sự vươn lên của
một số doanh nghiệp thép không xóa đi được thực trạng ngành thép Việt Nam. Số
liệu từ VSA cho thấy, hơn 2/3 nhà máy sản xuất thép trong nước hiện sử dụng các
thiết bị sản xuất có trình độ công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng và
gây ô nhiễm môi trường. Trong luyện phôi, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu dùng
công nghệ lò điện, vốn là công nghệ lạc hậu so với lò cao. Trong sản xuất thép,
nhiều công ty sử dụng lò dung tích nhỏ (chưa tới 100 m3), thấp hơn nhiều so với dung tích bình quân hàng ngàn mét
khối của Nhật, Trung Quốc. Bởi thế, các doanh nghiệp thép của Việt Nam thường
mất thời gian gấp đôi và tiêu hao điện cao hơn 60-70% so với thế giới để sản
xuất 1 mẻ thép, theo báo cáo từ VNSteel. Và giá thành làm thép của Việt Nam
cũng cao hơn 10-15% thế giới.
Tương lai ngành thép
Việt Nam đang trông nhờ vào các doanh nghiệp tư nhân như Hòa Phát, Hoa Sen,
Pomina. Đây là các doanh nghiệp đã lớn mạnh về quy mô, đầu tư nghiêm túc nên
được kỳ vọng sẽ tạo được sức cạnh tranh. Nhưng đây cũng là nhóm cần sự hỗ trợ
từ chính sách. Chẳng hạn, chính sách cấm xuất khẩu quặng sắt có lợi cho Hòa
Phát và TISCO. Hòa Phát, chẳng hạn, đã nắm quyền quyết định trong đàm phán mua
quặng sắt khi các cửa ra cho quặng sắt bị đóng lại.
Ngay việc áp thuế tự
vệ cũng chỉ có lợi cho một số doanh nghiệp vừa luyện phôi vừa sản xuất thép như
Hòa Phát, Việt Ý, Pomina, nhóm doanh nghiệp VNSteel, theo đánh giá của Công ty
Chứng khoán Bảo Việt. Còn phần đông những doanh nghiệp chỉ sản xuất hoặc làm
thương mại thép lại không hưởng lợi hoặc hưởng lợi rất ít. Rõ ràng, các chính
sách về thép chỉ hỗ trợ một nhóm doanh nghiệp và đã gây ra những tranh cãi nhất
định.
Đáng nói là dù được
tạo điều kiện, sản phẩm thép Việt Nam vẫn khó lật ngược thế cờ trước thép
ngoại. Lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam vẫn trên đà tăng và tăng cao hơn sản
lượng thép sản xuất trong nước. Trong khi đó, sản xuất thép đưa đất nước đối
mặt với rủi ro môi trường. Theo Hội Khoa học Kỹ thuật Đúc - Luyện kim
Việt Nam (VFMSTA), để sản xuất được một tấn thép thô bằng công nghệ lò
cao, các doanh nghiệp sẽ thải ra hơn 585 kg chất thải rắn, 3 m3 nước thải độc hại, 2,3 tấn khí CO2, cùng các loại khí CO, SO2, bụi và bụi kim
loại... Vì vậy, trong các vùng luyện kim, thường 60% khí quyển bị nhiễm bẩn.
Nếu các loại khí thải này không được xử lý tốt, các hóa chất sẽ gây ra những
hiện tượng như mưa a-xít, cùng với bụi kim loại, làm nguy hại cho sức khỏe con
người, cây trồng vật nuôi trong khu vực.
Trả lời báo chí, ông
Phạm Chí Cường, Chủ tịch VFMSTA, cho biết: “Sản xuất thép là ngành không thân
thiện với môi trường. Không có nhà máy thép nào là sạch. Nơi nào có nhà máy
thép nơi đó có ô nhiễm”. Để làm sạch môi trường, năm 2014, các doanh nghiệp Mỹ
đã chi 17 USD cho mỗi tấn thép, theo Cục Điều tra Thống kê Mỹ. Nếu Formosa cũng
làm theo cách của doanh nghiệp Mỹ, ước tính chi phí khử ô nhiễm khi sản xuất
7,5 triệu tấn thép sẽ là 127 triệu USD.
Việt Nam đi sau, lại
không có lợi thế về quy mô, công nghệ, vốn… để đưa ngành thép đạt tới tầm vóc
đủ sức cạnh tranh về giá và chất lượng với các nước. Trong khi đó, thép Trung
Quốc, thép Hàn, Nhật... dư thừa nguồn cung, không ngừng đe dọa thép Việt Nam.
Và cùng với hiểm họa môi trường, một số ý kiến cho rằng, Việt Nam nên đi con
đường nhập thép sẽ lợi ích hơn là đẩy mạnh sản xuất thép.
Ngọc Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét